Ði bộ 20 phút mỗi ngày giảm nguy cơ suy tim

Nghiên cứu được tiến hành với hơn 137.000 phụ nữ tuổi từ 50-79 tham gia Dự án Sáng kiến Y tế Phụ nữ - một nghiên cứu dài hạn phát hiện về nguyên nhân tử vong và các bệnh thường gặp ở phụ nữ sau mãn kinh. Sau đó, các nhà khoa học đã xem xét một tập hợp con gồm 35.272 phụ nữ được chẩn đoán mắc chứng suy tim. Trong vòng 14 năm nghiên cứu, đã thêm 2.523 trường hợp suy tim mới phát hiện.

PGS. dịch tễ học Michael LaMonte - tác giả nghiên cứu cho biết: Hoạt động thể chất như đi bộ, đạp xe đạp đối với phụ nữ lớn tuổi từ 20 phút mỗi ngày trung bình giúp giảm 9% nguy cơ suy tim toàn phần, 8% nguy cơ suy tim với phân suất tổng máu được và 10% với suy tim với phân suất tổng máu giảm. Theo các chuyên gia: Việc phát hiện tác dụng của việc đi bộ với giảm nguy cơ suy tim rất quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng. Vì suy tim phổ biến với những người qua tuổi 60 và việc điều trị căn bệnh này rất tốn kém, nhiều khó khăn. Do đó, việc di chuyển nhiều hơn, ngồi ít hơn là lời khuyên hữu ích dành cho tất cả mọi người.

QT

((Theo Dailymail, 9/2018))

Cách sử dụng kem chống nắng hiệu quả

Nguyễn Thị Văn(Hải Phòng)

Để giảm thiểu tác hại của tia nắng tới làn da thì nên dùng kem chống nắng thường xuyên, bất kể mùa nào trong năm. Tuy nhiên trên thực tế, không phải ai cũng biết sử dụng kem chống nắng đúng: dùng vào lúc nào và loại nào thực sự phù hợp với làn da của mình.Theo nguyên tắc thì chỉ số SPF 30 lọc được 95% các tia UV và chỉ số 60 thì lọc được 97% (chỉ hơn có 2%). Vì vậy, chúng ta thường mắc phải sai lầm khi nghĩ rằng chỉ số cao sẽ được bảo vệ lâu và tốt hơn mà không biết rằng da đang bị tổn thương khi sử dụng sai chỉ số. Kem chống nắng lý tưởng là loại có chỉ số SPF 20-30 cho làn da sáng và SPF 10-20 cho da sạm. Các chỉ số SPF cao 60-100 chỉ nên sử dụng ở những vùng da đặc biệt để có sự bảo vệ tối ưu cho làn da đang điều trị nám hay dị ứng ánh nắng.

Khả năng chống nắng tự nhiên của da khoảng từ 10-15 phút và mỗi độ SPF của kem chống nắng tương thích với khả năng chống nắng tự nhiên của da, tức là khoảng 10-15 phút. Như vậy, nếu sử dụng kem chống nắng có chỉ số chống nắng SPF 30 thì thời gian khả năng da được bảo vệ là khoảng 300 phút. Để phát huy hết khả năng chống nắng, người dùng nên thoa kem trước khi ra đường 30 phút hoặc có thể sử dụng kem chống nắng làm kem nền khi trang điểm, lượng kem chống nắng có thể duy trì, thẩm thấu vào da và có khả năng chống nắng tối đa nhất.

Khi bạn thường xuyên phải đi dưới nắng hoặc bạn đang tắm biển thì các chuyên gia khuyên bạn nên thoa lại kem 2 giờ/lần nhưng không nhất thiết phải thoa quá nhiều mà chỉ cần thoa một lớp kem mỏng. Nếu thoa quá dày, lớp kem thừa không kịp thẩm thấu vào da sẽ là nguyên nhân gây nên bệnh dị ứng da trong mùa hè. Riêng da mặt và cổ là những nơi nhạy cảm dễ bị tổn thương nên cần sử dụng loại kem chống nắng dùng riêng cho vùng da này.

BS. Lan Anh

Chuyển tuyến cấp cứu sản khoa

Thực tế đã gặp sự thắc mắc, khiếu nại của sản phụ và người nhà trong việc xin chuyển tuyến bệnh viện nhưng không được đáp ứng; vì vậy cần có sự hiểu biết về vấn đề này.

Chuyển tuyến cấp cứu sản khoa là công việc phải thực hiện của các tuyến y tế cơ sở từ xã, phường, thị trấn đến quận, huyện, thị xã, thành phố; đây cũng còn là nhiệm vụ của tuyến trên cần chi viện cho tuyến dưới khi cần thiết và chuyên chở sản phụ từ các tuyến dưới về bệnh viện. Các tình huống cấp cứu sản khoa có thể gặp ở sản phụ trước, trong và sau khi sinh bao gồm: sốc sản khoa; khó thở, suy hô hấp; trụy tim mạch, suy tim; chảy máu âm đạo; hôn mê và co giật; sốt cao; đau bụng dữ dội. Việc đánh giá xác định nhanh, phân loại và chẩn đoán hợp lý nguyên nhân của các cấp cứu sản khoa này rất quan trọng để giúp có phương án xử trí phù hợp và kịp thời sẽ góp phần cứu sống sản phụ.

Sốc sản khoa

Sốc sản khoa được xác định ở sản phụ với các dấu hiệu như có biểu hiện xanh mét, mệt mỏi, vã mồ hôi nhiều ở môi và trán, có vẻ mặt thờ ơ, chân tay lạnh; đôi khi có vật vã, giãy giụa do hiện tượng co rút cơ vì thiếu oxy mô tế bào tổ chức; thở nhanh, thở nông, thở hổn hển; mạch nhanh, nhỏ, khó bắt hoặc không có mạch tay quay nếu bị mất máu nặng từ 1.000ml trở lên; huyết áp hạ thấp, có khi không đo được nếu bị mất máu nặng hoặc sang chấn nặng hay bị sốc về thần kinh và tinh thần nặng nề... Đây là những dấu hiệu lâm sàng mà ở tuyến nào cũng có thể thấy và cần có thái độ xử trí kịp thời, tích cực, đúng kỹ thuật.

Chuyển tuyến cấp cứu sản khoaViệc chuyển tuyến cấp cứu sản khoa cần phải có những yêu cầu, tiêu chuẩn cần thiết

Xác định nguyên nhân ban đầu có thể do mất máu nhiều trong chấn thương gây chảy máu như rách phần mềm âm hộ, âm đạo; rách cổ tử cung, vỡ tử cung, thủng tử cung chảy máu và thường kèm theo triệu chứng đau đớn làm tình trạng sốc thêm trầm trọng; nhau tiền đạo, nhau bong non, nhau bong dở dang, nhau cài răng lược, đờ tử cung sau đẻ, sau phá thai và nhất là thai chết lưu; đồng thời có thể do nhiễm trùng, nhiễm độc từ độc tố của vi khuẩn gây ra vì viêm nhiễm đường sinh dục, nhiễm trùng ối, trong đó đặc biệt nguy hiểm là trường hợp sốc do nhiễm vi khuẩn gram âm gây rối loạn chuyển hóa và giảm khả năng sử dụng oxy của tế bào; ngoài ra cũng có thể bị đau đớn nhiều do sang chấn xảy ra khi đẻ khó, can thiệp các thủ thuật không được gây mê, gây tê và hồi sức hỗ trợ đầy đủ, có biểu hiện tâm thần không bình thường. Việc xử trí ban đầu tùy theo nhóm nguyên nhân, nếu bị sốc do mất máu phải bồi phụ đủ thể tích máu đã mất hoặc dịch thay thế máu, cung cấp oxy cho tế bào, trước khi chuyển sản phụ lên tuyến trên thì tuyến dưới phải loại bỏ hoặc hạn chế tối đa nguyên nhân gây chảy máu; nếu bị sốc nhiễm trùng phải cải thiện rối loạn huyết động học bằng cách truyền các dung dịch để hồi phục thể tích máu, kể cả máu khi có thiếu máu nặng thể hiện ở số lượng hồng cầu, huyết cầu tố thấp..., cung cấp đầy đủ oxy, cải thiện những rối loạn chức năng của tim, gan, thận, hô hấp và loại trừ tác nhân vi khuẩn gây bệnh.

Khó thở, suy hô hấp

Xác định suy hô hấp căn cứ vào các dấu hiệu tím tái, khó thở; bệnh cảnh lâm sàng thường gặp trong các trường hợp thiếu máu nặng, suy tim, hen phế quản, viêm phổi, phù phổi cấp. Xác định nguyên nhân suy hô hấp dựa vào triệu chứng xuất hiện như xảy ra đột ngột do dị vật, nang, tràn khí màng phổi; xảy ra nhanh do phù phổi cấp, hen phế quản, viêm phồi...; xảy ra từ từ do u phổi, tràn dịch màng phổi, suy tim mất bù...; nếu bị đau ngực có thể do tràn khí màng phổi, nhồi máu phổi, viêm màng phổi, nhồi máu cơ tim; nếu bị sốt nhiễm trùng có thể do viêm phổi, viêm phế quản... Trong trường hợp này cần thăm khám kỹ về hô hấp để phát hiện ran ẩm, ran rít, hội chứng 3 giảm; về tim mạch để phát hiện dấu hiệu suy tim; về thần kinh để phát hiện ý thức, triệu chứng liệt cơ hô hấp...

Xử trí ban đầu tình trạng suy hô hấp cần phải bảo đảm nguyên tắc của xử trí cấp cứu như phát hiện ngay tình trạng suy hô hấp nguy kịch để can thiệp thủ thuật theo trình tự của dây chuyền cấp cứu ABCD, dùng thuốc điều trị, theo dõi và kiểm soát tốt chức năng sống của bệnh nhân, Khai thông đường thở bằng cách đặt cổ sản phụ ưỡn ra để dẫn lưu tư thế, đặt canule Grudel hoặc Mayo để chống tụt lưỡi; hút đờm dãi, hút rửa phế quản; đặt tư thế nằm nghiêng an toàn nếu có nguy cơ sặc; thực hiện nghiệm pháp Heimlich nếu có dị vật đường thở; đặt nội khí quản hoặc mở khí quản để khai thông đường thở. Kiểm soát sự thông khí đối với các trường hợp cần hỗ trợ thông khí bao gồm giảm thông khí khi có dấu hiệu toan hô hấp với pH dưới 7,25; có nguy cơ giảm thông khí hoặc giảm thông khí sẽ tiến triển nặng thêm với PaCO2 tăng dần; thở nhanh và có cảm giác thiếu khí; liệt hoặc mệt cơ hoành với thở bụng bất thường, dung tích sống dưới 15ml/kg, áp lực hít vào tối đa từ -30cm H2O trở xuống; thiếu oxy máu nặng, kém đáp ứng với thở oxy. Có thể chỉ định đặt nội khí quản khi bị tắc nghẽn đường hô hấp trên, mất phản xạ bảo vệ đường thở, khả năng khạc đờm giảm nhiều hoặc mất, thiếu oxy máu nặng không đáp ứng thở oxy, cần thông khí nhân tạo xâm nhập.

Còn tiếp

BS. NGUYỄN TR M ANH

“Chặn đứng” bệnh tim mạch ngay từ bây giờ bằng các xét nghiệm cơ bản

Đây là những xét nghiệm y tế phổ biến, không mất nhiều thời gian để thực hiện nhưng lại có tác dụng vô cùng to lớn: giúp phát hiện sớm các biểu hiện bất thường, chẩn đoán chính xác đề điều trị kịp thời bệnh tim mạch. Nên nhớ căn bệnh này nằm trong nhóm những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thế giới nhưng không có nghĩa là “trời kêu ai nấy dạ”, hãy bảo vệ bản thân và chính mình ngay từ bây giờ!

Xét nghiệm cholesterol

Qua xét nghiệm cholesterol bạn có thể biết mình đang bị rối loạn mỡ máu hay không nhằm giảm thiểu nguy cơ phát triển các bệnh lý tim mạch. ( Ảnh minh họa)

Xét nghiệm cholesterol là một xét nghiệm rất phổ biến mà chúng ta vẫn thường hay nhắc đến dưới cái tên xét nghiệm mỡ trong máu. Xét nghiệm này sẽ cho biết bạn có bị rối loạn mỡ máu hay không để điều trị kịp thời hoặc điều chỉnh lối sống giúp kiểm soát tình trạng này. Rối loạn mỡ máu là nguy cơ chính dẫn đến cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, xơ vữa động mạch…

Có 4 chỉ số quan trọng trong xét nghiệm này mà bạn cần quan tâm là:

- Cholesterol toàn phần: tổng lượng cholesterol trong máu của bạn.

- Cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL): đây được gọi là cholesterol “xấu” vì nếu dư thừa sẽ gây hại cho cơ thể. Chúng vận chuyển cholesterol vào trong máu, lắng đọng vào thành mạch máu và là yếu tố chủ chốt hình thành mảng xơ vữa động mạch.

- Cholesterol lipoprotein tỷ trọng cao (HDL): còn được gọi là cholesterol “tốt”, có lợi cho cơ thể vì chúng hỗ trợ chống lại quá trình xơ vữa động mạch bằng cách mang cholesterol dư thừa ứ đọng từ thành mạch máu về gan.

- Triglyceride: là một dạng chất béo chiếm 95% chất béo hàng ngày mà mỗi chúng ta tiêu thụ trong chế độ ăn uống. Sau khi tiêu hóa triglyceride được sử dụng dưới dạng năng lượng tế bào khi di chuyển trong mạch máu. Những người thường xuyên cung cấp vào cơ thể lượng calo nhiều hơn khả năng tiêu thụ có thể có chỉ số triglyceride cao. Triglyceride tích tụ trong máu là nguyên nhân dẫn tới bệnh tim mạch, tiểu đường...và nhiều bệnh khác.

Để thực hiện xét nghiệm cholesterol, bạn thường được yêu cầu nhịn ăn từ 9 – 12 tiếng trước đó. Tùy vào kết quả, bác sĩ sẽ cho bạn biết khi nào cần làm lại xét nghiệm để theo dõi nhưng tốt nhất là nên kiểm tra hàng năm.

Điện tâm đồ

Bạn không cần phải chuẩn bị gì khi thực hiện xét nghiệm điện tâm đồ.

Xét nghiệm điện tâm đồ giúp đo lại hoạt động điện của tim. Xét nghiệm này được thực hiện bằng máy điện tâm đồ gồm các điện cực được lắp vào cổ tay, cổ chân và ngực (vùng tim) của bệnh nhân.

Xét nghiệm điện tâm đồ rất đơn giản, nhanh chóng, không đau và chi phí rẻ. Các bác sĩ có thể chỉ định bạn làm điện tâm đồ để:

- Đánh giá nhịp tim.

- Chẩn đoán bệnh động mạch vành (tình trạng gây ra do động mạch vành bị hẹp làm hạn chế cung cấp máu, oxy và chất dinh dưỡng cho tim).

- Chẩn đoán nhồi máu cơ tim.

- Đánh giá một số bất thường của tim, chẳng hạn như tim to.

Trước khi thực hiện xét nghiệm điện tâm đồ, bạn không cần phải chuẩn bị gì cả. Tuy nhiên nên tránh bôi các loại kem dưỡng, dầu nhờn… vì có thể chúng có thể khiến da bị nhờn, gây khó khăn khi lắp điện cực. Ngoài ra cũng nên mặc áo rộng rãi, có thể dễ dàng cởi bỏ để đặt các điện cực lên.

Siêu âm tim

Siêu âm tim cho phép bác sĩ tiếp cận những thông tin quan trọng về cấu trúc và hoạt động của một cách an toàn và không hề đau đớn. (ảnh minh hoạ)

Siêu âm tim được sử dụng rất rộng rãi để kiểm tra các bất thường của tim bao gồm cả nhịp đập và kích cỡ to bất thường, những cơn đau ngực không rõ nguyên nhân, tình trạng thở gấp hoặc nhịp tim không đều.

Việc sử dụng phương pháp siêu âm tim đặc biệt quan trọng trong chẩn đoán và điều trị bệnh tim. Vì siêu âm tim rất an toàn, cho phép bác sĩ tiếp cận những thông tin quan trọng về cấu trúc và hoạt động của tim mà không gây ra bất kì đau đớn hay nguy hiểm nào cho bệnh nhân. Những thông tin thu được từ siêu âm tim giúp các bác sĩ đưa ra những chẩn đoán chính xác và tư vấn cách điều trị phù hợp cho bệnh nhân.

Để thực hiện siêu âm tim, người bệnh không cần phải chuẩn bị gì nếu không có chỉ định đặc biệt từ bác sĩ. Thời gian siêu âm tim tùy thuộc vào tình trạng cụ thể của người bệnh, có thể kéo dài từ 30 – 45 phút.

Xét nghiệm C – Reactive Protein (CRP)

Xét nghiệm C-Reactive Protein, gọi tắt là CRP, là xét nghiệm máu lấy từ tĩnh mạch tay để biết mức độ viêm.( Ảnh minh họa)

CRP là một glycoprotein được gan sản xuất có đặc điểm là kết hợp với polysaccharide C của phế cầu, bình thường không thấy protein này trong máu. Tình trạng viêm cấp với phá hủy mô trong cơ thể sẽ kích thích sản xuất protein này và gây tăng nhanh nồng độ của nó trong huyết thanh. Vì thế CRP được biết đến như là chất chỉ điểm hiện tượng viêm. Hiện tượng viêm đóng vai trò trung tâm trong chứng xơ vữa mạch máu. Nồng độ CRP cao trong máu làm tăng nguy cơ về bệnh tim mạch. Nghiên cứu cho thấy ở những phụ nữ có nồng độ CRP cao trong máu, nguy cơ bị bệnh tim mạch tăng gấp 7 lần so với người có nồng độ CRP thấp.

Để thực hiện xét nghiệm C – Reactive Protein, bạn sẽ được lấy máu từ tĩnh mạch ở tay. Xét nghiệm này khá đơn giản, nhanh chóng, ít đau và bạn không cần phải nhịn ăn.

Chụp cắt lớp (CT) tim

Cần tuân thủ chặt chẽ mọi hướng dẫn của bác sĩ trước khi tiến hành chụp CT tim.(ảnh minh hoạ)

Đây là phương pháp chẩn đoán hình ảnh có sử dụng tia X để tạo ra hình ảnh chi tiết của tim và mạch máu.

Bác sĩ có thể chỉ định chụp CT tim để kiểm tra hoặc chẩn đoán các trường hợp sau:

- Các dị tật bẩm sinh trong tim.

- Tình trạng tích tụ của các mảng bám (được hình thành từ chất béo và các chất khác như canxi) ở động mạch vành. Các mảng bám này làm hẹp động mạch hoặc thậm chí gây tắc nghẽn dòng máu về tim, tạo ra các cơn đau thắt ngực hoặc đau tim.

- Những khiếm khuyết hoặc tổn thương ở các van tim.

- Khối u trong hoặc trên tim.

- Các cục máu đông trong buồng tim.

Chụp CT tim hầu như không đau đớn và cho phép bác sĩ có thể dễ dàng quan sát khám phá cấu trúc của tim và các mạch máu lân cận mà không cần thực hiện các thủ thuật xâm lấn (có vết rạch).

Trước khi thực hiện chụp CT, bạn nên mặc quần áo dễ thay vì cần phải mặc áo của bệnh viện khi chụp. Nếu có các vật dụng như đồng hồ, trang sức, gọng kính, răng giả hoặc kẹp tóc… thì nên để ở nhà hoặc gỡ ra trước khi chụp vì chúng có thể ảnh hưởng đến kết quả chụp CT. Ngoài ra cũng không nên sử dụng các loại đồ uống có chứa caffeine như trà, cà phê…vào ngày chụp vì chúng có thể tác động đến nhịp tim.

Khắc phục chứng nứt kẽ hậu môn

Phan Thị Bình (Hà Nội)

Nứt hậu môn là một bệnh thường gặp, có đến 80% trẻ em bị nứt hậu môn trong năm đầu tiên của cuộc đời. Nứt hậu môn thường tự lành hoặc lành sau khi được điều trị bằng các biện pháp không phẫu thuật. Triệu chứng và dấu hiệu thường biến mất đi trong vòng 2 tuần, nhưng có thể phải mất đến 8 tuần vết nứt mới lành hẳn. Nếu vết nứt không lành sau 6 - 8 tuần, có thể phải sử dụng đến phẫu thuật.

Theo như bạn mô tả thì tổn thương ở hậu môn của con bạn là do táo bón gây ra, muốn biết chắc chắn được tổn thương và mức độ như thế nào thì bạn nên đến bác sĩ chuyên khoa tiêu hoá để được thăm khám hậu môn và có hướng xử trí. Một vấn đề quan trọng nữa là bạn phải điều trị chứng táo bón cho con bằng cách ăn nhiều rau, quả, uống nhiều nước, xoa bụng và tập thói quen đi ngoài ngày 1 lần; sau khi đi ngoài phải rửa hậu môn cho con bằng nước sạch hoặc nước muối pha loãng. Nếu có thể, cho cháu uống thêm men tiêu hóa để làm mềm phân, tránh phải rặn khi đi ngoài vì khi rặn sẽ làm tăng áp lực, làm rách lại vết nứt cũ đang lành hoặc gây ra vết nứt mới. Sau khi tự chữa cho con mà không thấy thuyên giảm, bạn nên đưa cháu đến cơ sở y tế để được bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa khám, cho đi làm xét nghiệm…và chữa trị kịp thời.

BS. Văn Bàng

Nhận biết tăng huyết áp thai kỳ

Chính vì thế, nhận biết và dự phòng THA là việc làm vô cùng quan trọng để phòng ngừa những biến chứng không mong muốn.

Biểu hiện của chứng THA khi mang thai

THA là một triệu chứng có thể có từ trước khi mang thai, xuất hiện trong khi mang thai hoặc đã có sẵn từ trước và nặng lên do thai nghén. Bên cạnh việc sử dụng máy đo huyết áp để biết chính xác huyết áp khi mang thai, thai phụ có thể chú ý quan sát sức khoẻ của bản thân để nhận biết chứng THA thường xảy ra sau tuần thứ 20-24 của thai kỳ qua một số biểu hiện sau:

Phù là triệu chứng xuất hiện sớm nhất, phù toàn thân, nằm nghỉ không hết, phù mềm ấn lõm. Đặc biệt, thai phụ thấy tăng cân nhanh, dấu hiệu phù này không giống với phù sinh lý do thai chèn ép gây ứ trệ tuần hoàn (phù nhẹ ở chân, mắt cá, khi nằm nghỉ hoặc gác chân lên cao thì hết phù).

THA khi có thai được coi là thai nghén có nguy cơ, nếu trước đó chưa biết có THA mà khi có thai, huyết áp tối đa > = 140mmHg hoặc huyết áp tối thiểu >= 90mmHg thì là THA, hoặc đã biết huyết áp trước đó mà huyết áp tối đa tăng >= 30mmHg hoặc huyết áp tối thiểu tăng > =15mmHg so với huyết áp trước khi mang thai thì được coi là THA (lưu ý: đo huyết áp 2 lần, mỗi lần cách nhau 4 giờ).

Đạm niệu: huyết áp tâm trương từ 90-110mmHg kèm theo đạm trong nước tiểu. 0,3g/l thì được gọi là tiền sản giật nhẹ và nếu huyết áp tâm trương >=110mmHg và lượng đạm trong nước tiểu 1g/l kèm theo các dấu hiệu nhức đầu, hoa mắt, đau vùng thượng vị thì được coi là tiền sản giật nặng và nếu không được điều trị kịp thời thì sẽ chuyển thành sản giật đe dọa tính mạng mẹ và con.

Tăng huyết áp, phù, protein niệu là dấu hiệu tiền sản giật nguy hiểm cho sức khỏe của mẹ và thai nhi.

Tăng huyết áp, phù, protein niệu là dấu hiệu tiền sản giật nguy hiểm cho sức khỏe của mẹ và thai nhi.

Dự phòng và điều trị

THA hiện nay vẫn chưa tìm được nguyên nhân cụ thể, một số yếu tố thuận lợi dẫn đến THA như ăn nhiều muối, ít vận động thể lực, béo phì, tăng cholesterol, căng thẳng thần kinh, tâm lý... Bên cạnh đó, tuổi của sản phụ cao (trên 35 tuổi); dòng họ có người bị bệnh; chế độ dinh dưỡng lúc mang thai chưa tốt, kèm theo đó là chứng thiếu máu trầm trọng; chửa sinh đôi; thai phụ có nước ối quá nhiều; thời tiết thay đổi đột ngột, nóng lạnh thất thường… cũng là những nguyên nhân có thể gây THA ở phụ nữ mang thai.

Ngoài ra, một số bệnh lí mắc phải có thể làm THA ở phụ nữ có thai như: bệnh về thận, tuyến thượng thận, tuyến giáp, bệnh tim mạch, tiểu đường…

Tùy theo căn nguyên gây bệnh, nếu phát hiện bị THA mạn tính trước khi mang thai cần được điều trị ổn định. Khám thai định kỳ và đo huyết áp mỗi lần khám thai.

Trong khi mang thai, nếu có THA đi kèm với đạm trong nước tiểu và phù thì phải nghĩ ngay đến THA do nhiễm độc thai nghén. Sản phụ nếu bị nhiễm độc thai nghén nhẹ thì chỉ cần nghỉ ngơi, nằm nghiêng trái, uống thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ điều trị. Nếu có triệu chứng nhiễm độc thai nghén nặng thì cần phải được điều trị nội trú tại các cơ sở y tế chuyên khoa. Nhiều trường hợp điều trị nội khoa không kết quả phải mổ lấy thai sớm vì sức khỏe của mẹ và con.

BS. Lê Thị Hương

Người bệnh tim mạch cần tập luyện như thế nào?

Thể dục thể thao (TDTT) luôn đem lại những lợi ích tuyệt vời cho sức khỏe và tuổi thọ của mỗi người, phòng ngừa được nhiều bệnh tật. Đối với bệnh tim mạch các nhà khoa học cũng đã có khá nhiều nghiên cứu minh chứng cho lợi ích to lớn của việc tập luyện TDTT trong việc phòng cũng như chống lại các bệnh lý tim mạch và những biến cố nguy hiểm do nó gây ra. Vấn đề đặt ra là làm sao chúng ta tập luyện đúng cách và khoa học nhằm đem lại lợi ích thực sự cho sức khỏe tim mạch.

Vì sao tập luyện TDTT có lợi cho tim mạch?

Một nghiên cứu mới đây đăng trên tạp chí Circulation sự khác nhau về mức độ luyện tập thể dục có thể ảnh hưởng lên nguy cơ tim mạch như thế nào? Các nghiên cứu trước đây đã báo cáo ảnh hưởng của cường độ luyện tập: nhẹ, trung bình, nặng… nay nghiên cứu này đánh giá thời gian luyện tập lên sức khỏe của tim mạch. Sau khi phân tích 33 nghiên cứu, người ta thấy rằng những người tham gia luyện tập thể lực mức độ trung bình 150 phút tuần đã giảm 14% nguy cơ bệnh tim mạch, còn những người luyện tập 300 phút tuần giảm 20%, khi so sánh với những người không luyện tập gì cả. Với những người luyện tập hơn 300 phút/tuần thì thậm chí chỉ giảm nguy cơ tim mạch dưới 20%, trong khi những người có luyện tập thể lực (nhưng ít hơn 150 phút/tuần) thì vẫn có thể giảm được nguy cơ tim mạch đáng kể hơn những người không luyện tập gì cả. Những kết quả trên cho thấy tất cả mọi loại luyện tập thể lực đều giúp tăng cường sức khỏe tim mạch và giảm nguy cơ bệnh tim.

Tuy nhiên, những người lớn tuổi càng luyện tập nhiều và đều đặn thì càng tốt cho sức khỏe. Vì có luyện tập là có lợi cho sức khỏe, nên mọi người cần phải cố gắng luyện tập thể thao để đạt được ít nhất 150 phút/tuần, nếu không nhiều hơn được, để có lợi trên tim mạch tốt nhất. Ngoài ra, mọi dạng của hoạt động thể lực từ lau nhà, đi bộ, chạy bộ đều có lợi cho tim mạch. Hoạt động thể lực thúc đẩy rất nhiều lợi ích cho cơ thể như giảm cân, hạ huyết áp và giảm căng thẳng. ..tất cả những lợi ích trên đều ảnh hưởng tốt lên sức khỏe tim mạch.

Trái tim của chúng ta, khi được tập luyện thường xuyên sẽ đập chậm hơn khi phải vận động mạnh. Ngoài ra, cơ bắp của một người siêng năng tập luyện sẽ ít mệt mỏi, tạo nên cảm giác khỏe khoắn lâu dài. Không chỉ vậy, tập thể thao giúp bạn tránh được quá trình tích tụ mỡ của cơ thể, vốn được xem là một trong những nguyên nhân làm tăng nguy cơ bị bệnh tim mạch. Ngoài ra, động mạch vành cũng giãn nở dễ dàng, giúp tim hoạt động hiệu quả.

Trái với suy nghĩ khá phổ biến “bệnh nhân tim mạch cần nghỉ ngơi tuyệt đối tại giường”, những bệnh nhân bị bệnh tim có tập luyện thường xuyên đã cảm thấy tâm lý sảng khoái hơn, sự tự tin và chất lượng cuộc sống gia tăng. Họ cũng ít bị các triệu chứng, ít đi khám bác sĩ và khả năng trở lại làm việc nhiều hơn. Như vậy, rõ ràng vận động hợp lý đã đóng góp nhiều cho quá trình phục hồi chức năng tim mạch của các bệnh nhân.

Nếu bạn không thể sắp xếp thời gian để luyện tập mỗi ngày 30 phút thì có thể leo cầu thang bộ thay vì đi thang máy, hoặc cố gắng đi bộ nhiều hơn. Bởi khi tập thể dục sẽ làm tăng sức chịu đựng thiếu oxy, giảm nhu cầu đòi hỏi về oxy của cơ tim; khai thông những mạch kém hiệu năng hoạt động trong cơ tim. Ngoài ra, hoạt động thể lực làm cho động mạch mềm mại, tăng đàn hồi, dẻo dai hơn; các tĩnh mạch đưa máu về tim nhanh chóng và đều đặn hơn; đẩy máu nhiều hơn đến não, phổi, thận, gan và các cơ bắp…

Người bệnh tim mạch cần tập như thế nào?

Tại Ireland và các nước châu u, tập thể dục thường được xem là nhân tố trung tâm trong những chương trình hồi phục tim mạch. Trước khi tham gia tập luyện, bệnh nhân sẽ được bác sĩ đo đạc cẩn thận các chỉ số để xếp loại nguy cơ thấp, trung bình hay cao nhằm chọn lựa được một chế độ tập luyện phù hợp nhất. Với những bệnh nhân vừa trải qua một cơn “thập tử nhất sinh” vì bệnh tim mạch, việc vận động sẽ được phân ra theo giai đoạn cụ thể, phụ thuộc vào chương trình vật lý trị liệu và phục hồi chức năng do bác sĩ và các kỹ thuật viên đưa ra. Tại các nước có điều kiện, bệnh nhân sẽ được tổ chức những lớp học để tập luyện theo nhóm cùng nhau.

Với những người có vấn đề về bệnh tim mạch, cần đến khám bác sĩ để được hướng dẫn cụ thể về một chế độ tập luyện với cường độ phù hợp. Tốt nhất là chỉ chọn những môn thể thao không đòi hỏi nhiều thể lực như đi bộ, chạy bộ (chậm), bơi lội, thể dục nhẹ nhàng… Đặc biệt, cần khởi động kỹ tối thiểu 15 phút để các hệ cơ-xương-khớp, hệ tuần hoàn và hô hấp có thể thích nghi với nhịp độ vận động. Bệnh nhân tim mạch cần tránh tập luyện với tinh thần của một “đấu sĩ” vì gắng sức quá sẽ có thể gây nguy hiểm.

Đối với những người thể trạng yếu có thể tập các môn thể thao như đi bộ, chạy chậm đều, đi xe đạp, bơi lội… theo phương thức luyện tập vài phút thì tạm nghỉ bằng thời gian tập hoặc nghỉ gấp đôi thời gian tập, tiếp tục lặp đi lặp lại như thế trong tổng thời gian khoảng 30-40 phút cho một lần tập luyện. Tiến hành tập luyện như thế đến khi thể lực được tăng cường mới lại kéo dài thời gian tập. Điều quan trọng trong tập luyện thể thao không phải là tập nhiều, hết sức mà là duy trì đều đặn, thường xuyên một cách có hệ thống và phù hợp với thể lực của mình.

Một số hình thức thể dục phù hợp đối với người bệnh tim:

Đi bộ: muốn đạt lợi ích thật sự cho tim mạch thì nên đi hơi nhanh, hơi rảo bước để cho mạch nhanh lên. Sau đó thong thả đi chậm. Nếu thấy ra chút mồ hôi và hơi thở gấp một chút là tốt. Có thể đi bộ nhiều lần trong ngày. Mỗi ngày rảo bước độ 30 - 60 phút là đủ.

Chạy: là cách tập luyện rất tốt cho người bệnh tim. Mỗi buổi tập nên bắt đầu chạy chậm, sau đó nhanh dần nhưng vừa sức và đều đặn. Khi thấy mệt thì chạy chậm dần lại trước khi ngừng hẳn.

Những buổi tập đầu tiên nên chạy những quãng đường ngắn, vài trăm mét hoặc người yếu thì vài chục mét, nhưng sau đó sẽ tăng dần lên. Có thể mỗi tuần chỉ chạy ba - bốn lần, với điều kiện tổng số chiều dài quãng đường được nâng dần lên.

Tránh chạy ở những nơi không khí ô nhiễm. Theo nghiên cứu, những người hít thở không khí ô nhiễm trong một thời gian dài sẽ có nguy cơ chết vì bệnh tim cao hơn người sống trong môi trường trong lành đến 76%.

Bơi: rất thích hợp với điều kiện là bơi thư thả nhẹ nhàng, không bơi nhanh và lặn vì việc nín thở rất nguy hiểm cho tim mạch.

Bóng bàn, cầu lông: môn thể thao nhẹ rất an toàn. Chơi tùy sức, nhẹ nhàng, đừng cố gắng nhưng không được chơi kéo dài trên một giờ.

Khí công, yoga: có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe toàn thân, đặc biệt là tim mạch vì nó ảnh hưởng tốt đến tâm lý, tạo sự lạc quan và tự tin cho người tập.

Để không sợ tập quá sức, người tập có thể đo nhịp tim theo công thức: (220 - số tuổi) x (60% hoặc 70%). Ví dụ người 50 tuổi thì phải có nhịp tim tối đa trong lúc vận động là: (220 - 50) x 70% = 119 lần/phút.

Bạn cần đảm bảo thực hiện tốt khâu khởi động và hồi tĩnh. Nếu chưa khởi động tốt đã tiến hành luyện tập với cường độ lớn sẽ dễ bị thiếu máu cơ tim dẫn đến đau tim. Cũng tương tự như vậy, nếu chưa hồi tĩnh đã dừng hoạt động đột ngột cũng làm tim khó thích nghi ngay, thậm chí gây ra những phản ứng xấu. Cần chú ý phản ứng của nhịp tim và huyết áp. Nên tiến hành đo nhịp tim và huyết áp trước mỗi lần vận động, trong khi tập luyện với lượng vận động cao nhất và 2 phút sau khi dừng tập (đếm mạch đập trong 15 giây rồi nhân với 4), lấy đó làm các chỉ tiêu để đánh giá lượng vận động với phản ứng của cơ thể.

Cần lên kế hoạch tập luyện và ghi chép nhật ký luyện, lượng vận động và cảm giác của chính mình... làm cơ sở điều chỉnh và tổng kết kinh nghiệm, để việc tập luyện phát huy hết tác dụng, giúp sức khỏe ngày càng được tăng cường.

Hải Long (tổng hợp)

Giải pháp ăn uống khi bị dị ứng nổi mề đay

Có rất nhiều loại thực phẩm có thể gây dị ứng với cơ thể, điều này còn phụ thuộc vào cơ địa khác nhau của mỗi người. Chế độ ăn uống đóng vai trò lớn trong điều trị mề đay cũng như ngăn ngừa tái phát. Vì đa số người bệnh nổi mề đay là do dị ứng với thực phẩm, chính vì vậy mà khi mắc bệnh cần chú ý tìm hiểu xem mình nên và không nên ăn gì để tránh tình trạng thêm tồi tệ.

Những thực phẩm dễ gây dị ứng

Lạc

Các ptotein dự trữ có trong củ lạc là thủ phạm có thể gây dị ứng, nguồn dinh dưỡng cho sự tăng trưởng của cây sau này. Vicilin và albumin là hai protein gây dị ứng mạnh nhất và vẫn bền vững ở nhiệt độ cao, 1mg là ngưỡng gây dị ứng lạc được ghi nhận (một hạt lạc có khối lượng trung bình 500-1.000mg). Điều này có nghĩa rằng 1/1.000 hạt lạc cũng có thể làm khởi phát phản ứng dị ứng ở một số bệnh nhân.

Thịt bò, sữa bò

Casein và protein huyết thanh là loại protein trong thịt bò và sữa bò dễ gây phản ứng dị ứng, vì vậy mà không ít người, nhất là trẻ nhỏ sau khi ăn uống nhóm thực phẩm này đã bị dị ứng.

Protein này cũng có ở trong các loại động vật có vú khác, tuy nhiên không nhiều như ở thịt bò và sữa bò nên bạn có thể cân nhắc hạn chế đối với trẻ thường xuyên gặp phải bệnh nổi mề đay mẩn ngứa.

Hải sản là nhóm thực phẩm dễ gây dị ứng.

Hải sản là nhóm thực phẩm dễ gây dị ứng.

Hải sản

Hải sản là nhóm thực phẩm khiến nhiều người gặp phải tình trạng dị ứng mẫn cảm nhất, một số loại thực phẩm như: tôm, các loại cá, cua, ghẹ, mực... Do trong nhóm thực phẩm này có thành phần chủ yếu là các loại protein parvalbumin có thể gây phản ứng với những người nhạy cảm và xuất hiện tình trạng dị ứng nổi mẩn ngứa. Nhiều người nghĩ rằng ở nhiệt độ cao thì nó sẽ không còn gây ra tình trạng dị ứng nữa nhưng hoàn toàn không phải vậy. Ở nhiệt độ cao cũng không thể chuyển hóa parvalbumin nên phản ứng dị ứng vẫn xảy ra. Vì vậy nên hạn chế ăn các loại thực phẩm này để tránh tình trạng sốc phản vệ.

Khi bị dị ứng hải sản không chỉ biểu hiện nổi mề đay ngứa ra bên ngoài cơ thể mà chúng còn gây dị ứng bên trong đường tiêu hóa, gây phản ứng toàn thân có thể gây sốc phản vệ và vô cùng nguy hiểm.

Rượu, bia, nước có ga

Rượu bia cũng là một trong những thành phần dễ gây mề đay mẩn ngứa, khi mà vitamin nhóm B có trong rượu bia, nước có ga dễ gây kích ứng tới các tế bào thần kinh từ đó dẫn tới mẩn ngứa da, nổi đỏ. Tuy nhiên thì hầu hết người bị ứng bia rượu thường nhẹ, không gây nên tình trạng sốc phản vệ.

Đi tìm giải pháp

Hiện nay không có thuốc nào chữa dị ứng của thực phẩm. Tuyệt đối không ăn các thực phẩm tạo dị ứng là cách duy nhất hiệu quả. Sau đây là phương thức tìm và tránh ăn những loại thực phẩm dễ gây dị ứng.

Nếu biết mình bị dị ứng thực phẩm, mỗi khi ăn phải coi kỹ trong thực phẩm có chất nào làm cho mình bị dị ứng không.

Nhớ lại những món ăn mình sử dụng trong thời gian gần nhất để tìm xem nguyên nhân gây bệnh xuất phát từ đâu để loại bỏ thức ăn này ra khỏi thực đơn ăn uống hàng ngày của mình. Sau khi điều trị khỏi, nếu bạn vẫn chưa rõ dị ứng với loại thức ăn nào, cần ăn thử từng món để xem có dị ứng hay không (ví dụ, một ngày ăn toàn thịt gà (không ăn món nào khác), nếu bị dị ứng thì xác định nguyên nhân do thịt gà gây nên).

Không nên ăn các loại thực phẩm tạo nhiều dị ứng liệt kê dưới đây trong 4 ngày. Đến ngày thứ 5 thì nên ăn lại từng loại một để xem phản ứng. Nếu không có phản ứng, ăn kế tiếp loại khác vào ngày sau:

Trứng các loại thực phẩm có pha trứng.

Đồ uống màu đậm: như trà, cà phê, coca.

Lúa mì.

Cholesterol: các loại có socola.

Sữa: Các sản phẩm làm bằng sữa, như bơ, phômai, kem, sữa chua...

Cà chua: cà chua và các sản phẩm có cà chua.

Trái cây chua: chanh, bưởi, cam, các loại nước làm bằng trái cây chua.

Nếu thấy bị phản ứng phải đi bác sĩ ngay, ngay cả trường hợp thấy mình bị nhẹ hoặc sắp hết. Triệu chứng bị nhẹ có thể khởi đầu cho triệu chứng bị nặng kế tiếp ngay sau đó.

BS. Ngô Mỹ Hà

Điều trị lạc nội mạc tử cung ở trẻ vị thành niên

Theo TS.BS. Lê Thị Thu Hà (Trưởng khoa Hậu sản M, BV. Từ Dũ, TP.HCM), LNMTC là tình trạng khi có sự hiện diện của tổ chức tuyến nội mạc tử cung và mô đệm ở ngoài buồng tử cung, thường định vị ở vùng chậu. Bệnh có thể liên quan nhiều đến triệu chứng đau và suy nhược, hoặc có thể không có triệu chứng. LNMTC xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng gặp nhiều ở phụ nữ tuổi hoạt động sinh dục. LNMTC thường gặp sau dậy thì 15 năm hoặc 5 năm sau lần có thai cuối cùng. Đặc biệt, ở trẻ vị thành niên, chẩn đoán và điều trị LNMTC không dễ dàng. Theo quy định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), 10 - 19 là độ tuổi vị thành niên.

Đau từ trước năm 20 tuổi

Theo BS. Thu Hà, hơn 60% số phụ nữ trưởng thành bị LNMTC cho biết các triệu chứng của họ bắt đầu từ trước 20 tuổi. Nhiều trường hợp có một vài dấu hiệu phát triển tuyến vú và những một số khác ngay sau khi hành kinh lần đầu. Một số trẻ vị thành niên có yếu tố di truyền. Một nghiên cứu trên 123 bệnh nhân bị LNMTC, trong đó khoảng 7% số bệnh nhân có mẹ hoặc chị ruột cũng nhiều khả năng bị LNMTC. Ngoài ra, các dị tật bẩm sinh của bộ phận sinh dục nữ làm tăng tình trạng trào ngược có liên quan đến LNMTC ở trẻ vị thành niên.

Điều trị lạc nội mạc tử cung ở trẻ vị thành niên Bệnh có thể liên quan nhiều đến triệu chứng đau và suy nhược

“Chẩn đoán và điều trị LNMTC sớm ở trẻ vị thành niên giúp làm chậm tiến triển bệnh và làm giảm các tác động lâu dài không mong muốn của bệnh như đau mạn tính, khối u nội mạc tử cung, vô sinh. Từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của thanh thiếu niên và những phụ nữ bị rối loạn này. 63% số trẻ vị thành niên bị LNMTC thường có cả cơn đau không theo đúng chu kỳ và có chu kỳ với những cơn đau nặng và đau tiến triển. Các triệu chứng đau ở đường ruột (đau trực tràng, táo bón, đau khi đi tiêu có chu kỳ, chảy máu trực tràng) và các triệu chứng bàng quang (chứng tiểu khó, tiểu gấp, tiểu máu) khá phổ biến trong khi khối u lạc nội mạc ở buồng trứng và vô sinh hiếm gặp ở trẻ vị thành niên”, BS. Thu Hà cho biết. Ở trẻ vị thành niên, chẩn đoán và điều trị lạc nội mạc tử cung không dễ dàng

Ngược lại, theo BS. Thu Hà, người lớn bị lạc nội mạc thường có cơn đau theo chu kỳ, thống kinh, giao hợp đau, khối u vùng chậu, vô sinh hoặc đau vùng chậu mạn tính.

Dễ mắc dị tật đường sinh dục

Cách tiếp cận khám phụ khoa tùy thuộc vào bệnh nhân. Ở trẻ đã quan hệ tình dục thì khám âm đạo, còn trẻ chưa thì khám trực tràng, đánh giá màng trinh xem có bị bít không, có máu tụ âm đạo, có vách ngang ngăn âm đạo không. Dị tật đường sinh dục dưới chiếm khoảng 5% trong số bệnh nhân này.

“Tổng phân tích tế bào máu, phân tích nước tiểu hoặc cấy nước tiểu để xác định nguyên nhân đau do liên quan đến đường niệu. Ngoài ra, CA 125 thường được dùng như một chất đánh dấu sinh học cho ung thư buồng trứng, nhưng có thể tăng cao trong một số tình trạng khác, như lạc nội mạc tử cung. Siêu âm có thể hữu ích để xác định hoặc loại trừ những nguyên nhân thực thể gây đau vùng chậu như u buồng trứng xoắn, xuất huyết buồng trứng, bất thường đường sinh dục hoặc viêm ruột thừa”, BS. Thu Hà cho biết.

Nếu đã loại bỏ bụng ngoại khoa và cấp cứu, điều trị nội khoa tình trạng thống kinh và LNMTC được ưu tiên hơn là nội soi chẩn đoán và điều trị bằng kháng viêm NSAIDs và nội tiết có chu kỳ.

NGUYỄN KHỞI

Điều trị bệnh lao những trường hợp đặc biệt

Phụ nữ có thai hoặc cho con bú mắc bệnh lao

Sử dụng phác đồ điều trị 2RHZE/4RHE để điều trị tấn công kéo dài trong 2 tháng với 4 loại thuốc Rifampicin (R), Isoniazid (H), Pyrazinamid (Z), Ethambutol (E) uống hàng ngày và điều trị duy trì kéo dài trong 4 tháng với 3 loại thuốc Rifampicin (R), Isoniazid (H), Ethambutol (E) uống hàng ngày. Lưu ý không nên dùng Streptomycin (S) vì thuốc có khả năng gây độc cho tai của thai nhi. Cần dùng thêm vitamin B6 với liều 25mg mỗi ngày nếu có sử dụng INH (Isoniazid).

Phụ nữ đang dùng thuốc tránh thai mắc bệnh lao

Thuốc chống lao Rifampicin thường có tương tác với thuốc tránh thai, chúng có thể làm giảm tác dụng của thuốc tránh thai. Vì vậy, khi phụ nữ đang uống thuốc tránh thai, nếu điều trị bệnh lao bằng phác đồ có Rifampicin thì có thể chọn một trong hai giải pháp là dùng thuốc tránh thai có chứa liều lượng Estrogen cao hơn hoặc dùng biện pháp tránh thai khác.

Người bệnh lao có bệnh lý gan

Nếu người bệnh lao có tổn thương gan nặng từ trước phải được điều trị nội trú tại bệnh viện và theo dõi chức năng gan trước và trong quá trình điều trị. Phác đồ điều trị sẽ do bác sĩ chuyên khoa quyết định tùy khả năng dung nạp thuốc của người bệnh. Sau khi người bệnh dung nạp thuốc tốt, men gan không tăng và có đáp ứng tốt về lâm sàng thì có thể chuyển điều trị ngoại trú và theo dõi chặt chẽ.

Điều trị bệnh lao những trường hợp đặc biệtẢnh minh họa

Đối với người bệnh lao có bệnh gan mạn tính, nếu chức năng gan bình thường có thể tiếp tục điều trị và không cần thiết xét nghiệm trừ khi bệnh nhân có triệu chứng của nhiễm độc gan; nếu men gan cao ít hơn 2 lần giới hạn trên của mức bình thường và không kèm theo triệu chứng nhiễm độc gan thì bệnh nhân có thể được bắt đầu điều trị nhưng phải theo dõi đánh giá triệu chứng của nhiễm độc gan và các chỉ số men gan hàng tháng; nếu men gan cao trên 2 lần giới hạn trên của mức bình thường thì ngừng điều trị lao và phải tiếp tục quản lý tại bệnh viện; bệnh nhân có bệnh gan mạn tính không nên dùng Pyrazinamid, Isoniazid và Rifampicin, do đó có thể kết hợp một hoặc hai loại thuốc không độc với gan như Streptomycin và Ethambutol hay kết hợp với một thuốc thuộc nhóm Fluoroquinolones.

Đối với người bệnh lao có viêm gan cấp tính, vừa mắc bệnh lao và đồng thời vừa mắc bệnh viêm gan cấp tính như viêm gan siêu vi cấp tính không liên quan đến lao hoặc điều trị lao. Việc đánh giá lâm sàng rất cần thiết trong việc đưa ra quyết định điều trị. Trong một số trường hợp có thể trì hoãn việc điều trị bệnh lao cho đến khi bệnh viêm gan cấp tính đã được điều trị ổn định. Trong trường hợp cần thiết phải điều trị bệnh lao trong viêm gan cấp tính, viêm gan không ổn định hoặc tiến triển như có men gan cao gấp 3 lần mức ban đầu thì có thể cân nhắc một trong các lựa chọn tùy thuộc vào mức độ tiến triển. Mức độ tiến triển càng nặng thì phác đồ lựa chọn cần sử dụng càng ít thuốc độc đối với gan. Các lựa chọn có thể thực hiện: Giảm còn 2 thuốc thay vì 3 thuốc độc đối với gan như phác đồ 9HRE điều trị kéo dài 9 tháng thuốc Isoniazid (H), Rifampicin (R), Ethambutol uống hàng ngày; phác đồ 2HRSE/6RH điều trị tấn công kéo dài 2 tháng thuốc Isoniazid (H), Rifampicin (R), Streptomycin (S), Ethambutol (E) dùng hàng ngày và điều trị duy trì kéo dài 2 tháng thuốc Rifampicin (R), Isoniazid (H) uống hàng ngày; phác đồ 6-9RZE điều trị kéo dài 6 đến 9 tháng thuốc Rifampicin (R), Pyrazinamid (Z), Ethambutol (E) uống hàng ngày. Chỉ sử dụng 1 thuốc độc đối với gan như phác đồ 2HES/10HE điều trị tấn công kéo dài 2 tháng thuốc Isoniazid (H), Ethambutol (E), Streptomycin (S) dùng hàng ngày và điều trị duy trì kéo dài 10 tháng thuốc Isoniazid (H), Ethambutol (E) uống hàng ngày. Không sử dụng thuốc độc đối với gan như phác đồ 18-24SEFQs điều trị kéo dài 18 đến 24 tháng thuốc Streptomycin (S), Ethambutol (E), Fluoroquinolones (FQs) dùng hàng ngày.

Người bệnh được xác định có tổn thương gan do thuốc chống lao

Phải ngừng ngay việc sử dụng những thuốc lao gây độc cho gan, nên xem xét sử dụng thuốc Fluroquinolones nếu việc điều trị lao cần thiết; điều trị hỗ trợ chức năng gan cho đến khi men gan trở về lại chỉ số bình thường, hết vàng da; cần theo dõi lâm sàng và chỉ số men gan. Nếu không có đáp ứng hoặc có biểu hiện viêm gan do thuốc nặng thêm, phải chuyển bệnh nhân đến cơ sở chuyên khoa để điều trị.

Người bệnh lao có suy thận

Dùng phác đồ 2RHZ/4RH điều trị tấn công kéo dài 2 tháng với thuốc Rifampicin (R), Isoniazid (H), Pyrazynamid (Z) uống hàng ngày và điều trị duy trì kéo 4 tháng với thuốc Rifampicin (R), Isoniazid (H) uống hàng ngày có thể áp dụng điều trị bệnh lao cho người bệnh suy thận. Các loại thuốc đầu tay như Rifampicin, Isoniazid, Pyrazinamid và Ethionamide, Prothionamide hoàn toàn được chuyển hóa qua gan nên có thể được sử dụng một cách an toàn với liều bình thường ở những bệnh nhân có suy thận. Tuy nhiên, có thể thay đổi phác đồ điều trị và liều lượng khi có suy thận nặng. Thuốc Ethionamide và Prothionamide cũng được lựa chọn trong phác đồ điều trị ở bệnh nhân đa kháng thuốc có suy thận, nên hiệu chỉnh liều khi có suy thận nặng.

Điều trị bệnh lao những trường hợp đặc biệtKhuẩn lao Mycobacterium tuberculosis

Đối với bệnh nhân suy thận nặng, chạy thận nhân tạo; trong suy thận nặng hiệu chỉnh liều thuốc chống lao điều trị là cần thiết và được tính theo độ thanh thải của Creatinin. Isoniazid đôi khi gây ra bệnh não ở những bệnh nhân có suy thận và trong những ngày chạy thận, vì vậy cần bổ sung điều trị Pyridoxine ngăn chặn bệnh thần kinh ngoại vi.

Trường hợp bệnh lao nặng nguy cơ cao, đe dọa tính mạng; phải lựa chọn lợi ích và nguy cơ, có thể lựa chọn Streptomycin và Ethambutol điều chỉnh liều là cần thiết trong suy thận, liều điều trị được tính theo độ thanh thải của Creatinin. Trong trường hợp cần thiết phải điều trị lao đa kháng thuốc, việc dùng thuốc chống lao hàng thứ hai cho bệnh nhân suy thận phải hết sức chú ý liều lượng và thời gian giữa các liều.

Người bệnh lao mắc bệnh đái tháo đường

Cũng điều trị cũng giống như đối với tất cả các bệnh nhân khác, tuy nhiên bệnh nhân tiểu đường có nguy cơ bị tổn thương thần kinh ngoại vi, thuốc Isoniazid có nguy cơ cao gây viêm thần kinh ngoại vi, vì vậy nên dùng thêm thuốc Pyridoxin với liều lượng 10 - 25mg mỗingày. Cần kết hợp chặt chẽ với bác sĩ chuyên khoa để kiểm soát đường huyết, các biến chứng của tiểu đường. Đảm bảo tối ưu kiểm soát đường huyết, khi đường huyết ổn định theo dõi lượng đường trong máu hàng tháng, giáo dục bệnh nhân tuân thủ điều trị, chế độ ăn uống, hoạt động thể chất. Cần xem xét đến trường hợp tương tác thuốc trong việc kết hợp điều trị bệnh lao và điều trị bệnh tiểu đường khi dùng thuốc Rifampicin với nhóm thuốc Sulphonylurea, cân nhắc sử dụng thuốc hạ đường máu bằng Insulin, nhóm thuốc ít gây tương tác với thuốc chống lao Biguanide như Metformin không có tương tác với Rifampicin tuy nhiên Metformin gây tác dụng phụ trên hệ tiêu hóa khi kết hợp với thuốc lao và thận trọng những trường hợp suy gan, thận.

Người bệnh lao nhiễm HIV/AIDS

Các thuốc chống lao có tác dụng tốt đối với bệnh lao ở người bệnh lao nhiễm HIV (human immunodeficiency virus). Vì vậy điều trị lao cho người bệnh HIV/AIDS (nói chung không khác biệt so với người bệnh không nhiễm HIV/AIDS. Khi điều trị cần lưu ý một số điểm gồm: điều trị lao sớm ở người HIV có chẩn đoán lao. Phối hợp điều trị thuốc chống lao với điều trị dự phòng nhiễm trùng cơ hội khác bằng Cotrimoxazol và ARV (antiretroviral) càng sớm càng tốt, ngay sau khi người bệnh dung nạp thuốc chống lao sau 2 tuần đầu tiên. Thận trọng khi điều trị phối hợp ARV vì có hiện tượng tương tác thuốc giữa Rifampicin với các thuốc ức chế men sao chép ngược Non-nucleocide và các thuốc ức chế men Protease. Hội chứng phục hồi miễn dịch có thể xảy ra ở một số bệnh nhân nhiễm HIV điều trị lao có sử dụng thuốc kháng virút biểu hiện bằng các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng nặng lên; điều trị triệu chứng trong trường hợp nặng có thể sử dụng Corticosteroid với liều lượng 1mg/kg cân nặng trong khoảng 1 - 2 tuần.

Lời khuyên của thầy thuốcHiện nay lao là một bệnh xã hội đang có xu hướng phát triển và lây lan trong cộng đồng. Bên cạnh người mắc bệnh lao đơn thuần, còn có những trường hợp bệnh nhân lao là phụ nữ ở trong thời kỳ mang thai, đang cho con bú, dùng thuốc tránh thai; bệnh nhân lao mắc thêm một số bệnh lý khác về gan, tổn thương gan do dùng thuốc chống lao, suy thận, tiểu đường, nhiễm HIV/AIDS hoặc lao kháng thuốc...; đây là những trường hợp đặc biệt mà trong quá trình điều trị bác sĩ cần cân nhắc, thận trọng để hạn chế những tác dụng không mong muốn có thể xảy ra với những hậu quả biến chứng do phải dùng thuốc điều trị dài ngày. Việc điều trị phải được theo dõi, giám sát một cách chặt chẽ để bảo đảm tính hiệu quả và an toàn cho người bệnh.

Một số lưu ý khi điều trị lao kháng thuốc

Đối với phụ nữ có thai, tránh không nên dùng thuốc tiêm. Phần lớn các thuốc tiêm Aminoglycoside không nên dùng trong các phác đồ cho người bệnh mang thai vì có thể rất độc hại đối với việc phát triển thính lực của thai nhi. Capreomycin có thể gây độc cho tai của thai nhi nhưng lại là thuốc tiêm nên sẽ được lựa chọn nếu phải dùng thuốc tiêm trong trường hợp bệnh nặng; lúc này Capreomycin có thể được sử dụng cách nhật để giảm thiểu tác hại đối với thai nhi. Việc trì hoãn thuốc tiêm trong giai đoạn thai kỳ là cần thiết, tuy nhiên cần sử dụng ngay sau sinh để tăng cường hiệu lực của phác đồ. Tránh dùng Ethionamide và Prothionamid vì chúng có thể tăng nguy cơ gây buồn nôn và nôn mửa có liên quan đến tình trạng mang thai, và một số tác động phụ sẽ dẫn đến dị tật thai nhi. Nếu có thể được, không nên dùng Ethionamide cho người bệnh.

Đối với người bệnh bị động kinh, không nên dùng Cycloserine cho những người bệnh vẫn còn động kinh và chưa được kiểm soát triệt để bằng thuốc. Tuy nhiên, trong trường hợp Cycloserine là một thuốc thiết yếu của phác đồ điều trị thì loại thuốc này vẫn có thể được sử dụng và thuốc chống bệnh động kinh phải được điều chỉnh theo yêu cầu để kiểm soát. Rủi ro và lợi ích của việc dùng Cycloserine phải được trao đổi với người bệnh và cùng với người bệnh đưa ra quyết định liệu có dùng Cycloserine hay không.

Điều chỉnh thuốc chống lao trong trường hợp suy thận với liều khuyến cáo và tần suất cho người bệnh có độ thanh thải Creatinine dưới 30 ml/min hoặc bệnh nhân đang chạy thận nhân tạo chú ý các thuốc nên sử dụng sau khi lọc máu như: Pyrazinamid (Z) liều lượng 25 - 35mg/kg cân nặng dùng cách nhật; Ethambutol (E) liều lượng 15 - 15mg/kg cân nặng dùng cách nhật; Capreomycin (Cm) liều lượng 12 - 15mg/kg cân nặng dùng cách nhật; Kanamycin (Km) liều lượng 12 - 15mg/kg cân nặng dùng cách nhật; Levofloxacin (Lfx) liều lượng 750 - 1.000 mg dùng cách nhật; Moxifloxacin (Mfx) không cần điều chỉnh liều lượng; Cycloserine (Cs) liều lượng 250 mg mỗi ngày 1 lần, dùng hàng ngày hoặc 500mg mỗi ngày dùng cách nhật; Prothionamide (Pto) không cần chỉnh liều lượng; P-aminosalicylic acid (PAS) liều lượng 4g mỗi ngày, dùng 2 lần trong ngày; Linezolid (Lzd) không cần chỉnh liều lượng; Clofazimine (Cfz) không cần chỉnh liều lượng.

Đối với người bệnh lao màng não, lưu ý khả năng thấm qua hàng rào máu não của các thuốc như: ngấm tốt với thuốc Fluoroquinolones (FQs), Prothionamide (Pto), Cycloserine (Cs), Linezolid (Lzd), Pyrazinamid (Z), Isoniazid (H). Ngấm khi đang có phản ứng viêm với thuốc Kanamycin (Km), Streptomycin (S). Ngấm kém với thuốc P- aminosalicylic acid (PAS), Ethambutol (E). Hiện nay chưa có đủ bằng chứng về tính thấm qua hàng rào máu não với thuốc Capreomycin (Cm), Clofazimine (Cfz), Bedaquiline (Bdq), Delamanid (Dlm). Lưu ý không nên sử dụng Bedaquiline với chống chỉ định tuyệt đối cho trẻ em dưới 18 tuổi, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang cho con bú; có nguy cơ biến chứng tim mạch cao ở bệnh nhân trên điện tâm đồ có khoảng QT lớn hơn 500ms, có tiền sử xoắn đỉnh hoặc loạn nhịp tâm thất hay có bệnh lý mạch vành nặng, có tiền sử dị ứng nghiêm trọng với Bedaquiline. Đồng thời chống chỉ định tương đối ở bệnh nhân trên 65 tuổi, người có bệnh gan hoặc tổn thương gan thể hiện bằng các chỉ số xét nghiệm chức năng gan bất thường như SGOT (serum glutamic oxaloacetic transaminase) hay AST (aspartate aminotransferase) hoặc SGPT (serum glutamic pyruvic transaminase) hay ALT (alanine aminotransferase) trên 2 lần giới hạn trên của giá trị bình thường; người bị suy thận với Creatinine huyết thanh trên 2 lần giới hạn trên của giá trị bình thường trong tình trạng không mất nước, trong trường hợp mất nước Creatinine huyết thanh cần dưới 2 lần giới hạn trên của giá trị bình thường sau khi uống hoặc truyền dịch; ở bệnh nhân có chỉ số xét nghiệm Amylase và Lipase máu ngoài giới hạn bình thường; ở bệnh nhân có tiền sử bệnh lý cơ vân, nhiễm HIV. Lưu ý không nên dùng kết hợp Moxifloxacin và Bedaquiline.

Sử dụng corticosteroide trong một số trường hợp

Căn cứ trên các bằng chứng về hiệu quả và an toàn của thuốc Corticosteroide trong điều trị lao, hiện nay Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo dùng Corticosteroide cho điều trị lao màng não. Đối với lao màng tim, chỉ sử dụng trong một số trường hợp tràn dịch nhiều, nhanh tùy theo quyết định lâm sàng. Với đặc tính chống viêm mạnh, thuốc được sử dụng là Dexamethasone ở liều dùng đã thử nghiệm trên lâm sàng cho quần thể bệnh nhân lao màng não tại Việt Nam bằng phác đồ:

Tuần 1 liều lượng 0,4mg/kg cân nặng tiêm tĩnh mạch trong 7 ngày. Tuần 2 liều 0,3mg/kg cân nặng tiêm tĩnh mạch trong 7 ngày. Tuần 3 liều 0,2mg/kg cân nặng tiêm tĩnh mạch trong 7 ngày. Tuần 4 liều 0,1mg/kg cân nặng tiêm tĩnh mạch trong 7 ngày. Từ tuần thứ 5 chuyển thuốc uống với liều bắt đầu 4mg và giảm 1mg sau 7 ngày trong vòng 4 tuần. Các trường hợp khác tùy theo quyết định lâm sàng, tuy nhiên cần cân nhắc kỹ và theo dõi chặt chẽ các tác dụng phụ của Corticosteroide. Lưu ý theo dõi sự thay đổi tâm trạng, lo lắng, trầm cảm có thể do Corticosteroide nhưng khó phân biệt với độc tính thần kinh của Cycloserine khi điều trị trong phác đồ lao kháng thuốc.

BS. NGUYỄN HOÀNG ANH

Đông trùng hạ thảo – liệu pháp an toàn hỗ trợ đẩy lùi ung thư

Ung thư là gì ?

Ung thư là tên gọi chỉ một nhóm bệnh liên quan đến quá trình phân chia tế bào một cách vô tổ chức, có khả năng xâm lấn một cách trực tiếp vào mô lân cận, chúng có thể di chuyển đến những mô xa hơn (di căn). Di căn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở bệnh nhân ung thư. Có khoảng 100 loại ung thư đã được phát hiện. Trong đó, phổ biến nhất là ung thư gan, ung thư phổi, ung thư vú.

Ung thư là một căn bệnh gây ra bởi sự rối loạn chức năng tế bào. Sự rối loạn chức năng này giúp tế bào có những tính năng khiến chúng tăng trưởng và xâm nhập vào các mô khác. Tế bào bình thường chịu sự kiểm soát chặt của cơ thể. Nếu có bất cứ sai hỏng nào của mã di truyền ADN, ngay lập tức chúng sẽ được sửa sai bằng nhiều cơ chế tương thích hoặc tế bào tổn thương quá nặng chúng sẽ bị tiêu diệt. Tuy nhiên, thật không may, quá trình kiểm soát này cũng có lúc xảy ra sai sót dẫn tới tế bào bị tổn thương vĩnh viễn, không thể sửa sai hoặc tiêu diệt được. Chúng bất hợp tác với các tế bào xung quanh trong khi vẫn thừa hưởng khả năng nhân đôi mạnh mẽ như vốn có.

Đông trùng hạ thảo đóng vai trò như thế nào đối với quá trình chống lại ung thư ?

Hiện nay, trên thế giới, ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở người. Số lượng người mắc ung thư và dẫn tới tử vong không ngừng tăng nhanh. Căn bệnh này mang lại sự đau đớn, tổn thương to lớn về thể chất, tinh thần và kinh tế cho bệnh nhân cũng như toàn xã hội. Hiện nay chưa có thuốc đặc trị cho bệnh ung thư. Tuy nhiên, đông trùng hạ thảo là một liệu pháp an toàn mà nhiều người lựa chọn sử dụng.

Y học phương Đông và phương Tây đã chứng minh Đông trùng hạ thảo là loại dược liệu “quý hiếm” có tác dụng to lớn trong quá trình hỗ trợ trong điều trị cho nhiều bệnh khác nhau. Với thành phần gồm 17 loại acid amin cùng các nguyên tố vi lượng, các hoạt chất và các loại vitamin khác nhau, loài Đông dược có xuất xứ ở độ cao 3500-5000m này có tác dụng tích cực đến mọi yếu tố trong cơ thể con người và đặc biệt là người bị ung thư.

Các chứng minh khoa học và ứng dụng trong thực tiễn cho thấy: đông trùng hạ thảo có tác dụng trong việc hỗ trợ đẩy lùi các khối u ác tính, cải thiệt rõ rệt tình trạng bệnh của người mắc ung thư. Việc sử dụng Đông trùng hạ thảo trong thời gian dài có thể làm ức chế sự sinh trưởng, quá trình di căn của các khối u một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, đông trùng hạ thảo hỗ trợ tăng lượng bạch cầu và tiểu cầu, cải thiện các tác dụng phụ ở bệnh nhân sau hóa trị như: buồn nôn, chán ăn, rụng tóc, mất ngủ... Cùng với đó, việc sử dụng đông trùng hạ thảo dùng lâu dài giúp ngăn chặn sự tái phát của các khối u.

Tác dụng của Đông trùng hạ thảo trong việc hỗ trợ đẩy lùi ung thư

80% số người bị ung thư có triệu chứng suy kiệt trong suốt quá trình điều trị bởi những tác dụng phụ của hóa trị và xạ trị. Đây là hai nguyên nhân hàng đầu dẫn đến thiếu máu và mất vị giác gây ra tình trạng mệt mỏi, không hấp thụ được chất dinh dưỡng, chán ăn... dẫn tới suy sụp cả về thể lực và tinh thần của người ung thư. Mặc dù hóa trị, xạ trị là các phương pháp tối ưu trong chữa bệnh ung thư, nhưng nó cũng mang lại những tác dụng phụ không mong muốn cho người bệnh. Các nghiên cứu cho thấy, tác dụng của Đông trùng hạ thảo trong hỗ trợ đẩy lùi bệnh ung thư được thể hiện cụ thể như sau:

- Bảo vệ tủy xương bởi tác động xấu của hóa chất và tia xạ, kích thích quá trình sản xuất hồng cầu trong cơ, từ đó hỗ trợ chống thiếu máu, tăng cường lưu thông khí huyết giúp cơ thể bệnh nhân giảm mệt mỏi, đau nhức.

- Giúp người bị ung thư ăn ngon miệng thông qua việc cải thiện vị giác của họ. Đồng thời, hỗ trợ thúc đẩy quá trình hấp thu, chuyển hóa chất dinh dưỡng để cơ thể bệnh nhân có đủ sinh lực chống chọi lại bệnh ung thư

- Làm tăng nồng độ các amines trong não bởi quá trình ức chế khả năng ly giải của MAO-B tạo ra sự sảng khoái giúp bệnh nhân ổn định tinh thần, có giấc ngủ ngon, nhanh hồi phục sức khỏe.

- Tăng cường chức năng miễn dịch, nó giúp các tế bào khỏe mạnh ức chế sự phát triển đồng thời thúc đẩy quá trình tự chết theo chu trình của tế bào ung thư.

- Bảo vệ gan, thận trước độc tính của hóa chất các tia xạ và thuốc được sử dụng trong quá trình điều trị, tăng đào thải độc tố ra khỏi cơ thể.

Cordycepin là loại hoạt chất chống ung thư được tìm thấy duy nhất trong Đông trùng hạ thảo. Các nghiên cứu khoa học cho thấy:

- Hoạt chất Cordycepin trong Đông trùng hạ thảo có tác dụng trong việc ức chế tăng trưởng không kiểm soát và phân hóa tế bào (ở liều lượng thấp) và chặn đứng tế bào không cho chúng dính chặt với nhau nên sẽ ức chế tăng trưởng (ở liều lượng cao). Từ đó, kiểm soát tốc độ phát triển các tế bào ung thư.

- Thành phần muối triphosphate trong Cordycepin có tác dụng chống sự hình thành của chất RNA - một chất hiện diện trong chứng bệnh ung thư

- Cordycepin có tác dụng tương tự như thuốc tổng hợp hóa học acryclorvir trong quá trình điều trị bệnh ung thư. Hoạt chất Cordycepin tạo nên cơ chế làm gián đoạn tổng hợp ADN cũng giống như hiệu quả chống ung thư của một số tác nhân hóa trị liệu khác. Cơ chế này giống hệt cơ chế ức chế tổng hợp ADN của acryclorvir.

- Cordycepin trong Đông trùng Hạ thảo hỗ trợ đây lùi ung thư gan.

CORDYCEPS GOLD 750MG – Đông Trùng Hạ Thảo nhập khẩu 100% từ USA

Thành phần cấu tạo: Trong mỗi viên nang chứa chiết xuất đông trùng hạ thảo 750mg

Thành phần khác: Gelatin, Magnesium stearate , silicon dioxide

Thời gian sử dụng: 36 tháng kể từ ngày sản xuất. Ngày sản xuất và hạn sử dụng in trên nhãn sản phẩm.

Công dụng: Hỗ trợ bổ khí huyết, ích phế thận. Hỗ trợ tăng cường sinh lực, tăng khả năng miễn dịch, tăng sức đề kháng, nâng cao thể trạng sức khỏe.

Đối tượng sử dụng: Dùng cho người 18 tuổi trở lên

Hướng dẫn sử dụng: Dùng 1v mỗi ngày

Bà mẹ mang thai và cho con bú, trẻ con dưới 18 tuổi: tham khảo ý kiến bác sỹ, dược sỹ trước khi dử dụng

Bảo quản: Bảo quản nơi khô ráo thoáng mát, tránh ánh nắng mặt trời. Để xa tầm tay trẻ em

Số GPQC: 00575/2018/ATTP - XNQC

Sản phẩm này không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh

ĐỂ NHẬN ĐƯỢC TƯ VẤN KỸ HƠN VỀ SẢN PHẨM QUÝ KHÁCH VUI LÒNG LIÊN HỆ

Công ty cổ phần NISCO Việt Nam

VPGD: Tầng 11 toàn nhà Kim khí Thăng Long, số 1 Lương Yên, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

HOTLINE:0979 621 289 – 0906 082 468

FACEBOOK:https://www.facebook.com/CordycepGold750mg/

WEBSITE: http://dongtrunghathaousa.vn/